#Localzine là tập hợp những câu chuyện trải nghiệm về đời sống và văn hóa Việt
Trước 1975, người Sài Gòn đi xe gì? Có thể nói ngoài xe hơi rất được ưa chuộng thời đó thì xe đạp và xe gắn máy là phương tiện di chuyển chiếm đa số, trong đó Honda là cái tên được nhắc đến nhiều nhất.
Nói đến xe gắn máy “xưa”, không thể không nhắc Mobylette. Trước đây, Việt Nam từng là thuộc địa của Pháp nên chiếc Mobylette do hãng Motobécane (Pháp) chế tạo đương nhiên có mặt trên thị trường Việt Nam.
Xe Mobylette ở Việt Nam có loại Mobylette vàng và Mobylette xanh. Cả hai đều dùng động cơ 49,99cc để được xếp vào loại vélomoteur, không cần bằng lái, nhưng Mobylette vàng thì nhỏ hơn, chỉ có ống nhún phía trước, còn Mobylette xanh thì lớn, nặng hơn có ống nhún ở cả bánh trước lẫn bánh sau nên đi êm hơn và giá cao hơn.
Xe Mobylette được chế tạo để dễ sử dụng. Xe không cần sang số mà dùng embrayage automatique (dây ga tự động), vặn ga lớn thì xe chạy nhanh, vặn ga nhỏ lại thì xe chạy chậm và đứng lại. Khi muốn nổ máy thì chỉ cần đạp cho nhanh là xe nổ máy. Đạp mãi không nổ thì chỉ gần gạt môt cái chốt ở đĩa có dây cu-roa ăn vào động cơ để tách rời động cơ và bánh sau thì có thể đạp bộ về nhà.
Sau đó, xuất hiện Vélosolex. Xe này phổ biến trong giới học sinh, sinh viên, vì căn bản Vélosolex là một chiếc xe đạp có gắn động cơ lên bánh trước. Động cơ này làm lăn một cục đá tròn phía dưới. Khi người lái kéo cái cần trước mặt thì cục đá nâng lên khỏi bánh trước và có thể đạp như xe đạp.
Khi đạp đến một tốc độ nào đó, hạ cần xuống thì tốc độ của xe làm cho động cơ nổ máy và động cơ kéo chiếc xe đi bằng bánh trước. Khi xe đã chạy ngon trớn thì người lái có thể rút chân lên miếng để chân nhỏ ở giữa xe mà ngồi một cách thoải mái.
Sang hơn thì người ta chọn scooter của Ý: Vespa, Lambretta. Các xe scooter này vì lòng máy lớn hơn 50cc, nhỏ nhất là 125cc hoặc 150cc hoặc 200cc tùy theo kiểu, nên không còn được xếp vào loại vélomoteur. Người sử dụng phải trên 18 tuổi và phải có bằng lái.
Xe Vespa hàng chục năm nay không thay đổi mấy. Thân xe làm băng tôn ép. Có lẽ vì thế nên làm hình tròn như quả trứng để chịu lực tốt hơn. Máy được đặt ở chỗ phình bên phải, còn bên trái là ngăn để chứa đồ. Vì thế xe Vespa khi chạy hơi nghiêng về phía phải vì bên này nặng hơn.
Xe Lambretta (Lam) tuy trông bề ngoài giống Vespa nhưng cấu tạo lại khác. Khung xe bằng ống sắt hàn lại, máy đặt ở giữa khung và che bên ngoài bằng lớp vỏ sắt.
Xe Lambretta hồi đâu thập niên 1960 có đường nét cong. Cuối thập niên 60, qua đầu thập niên 70 thì kiểu dáng thẳng, theo như mốt của thời đó, nên trông thanh nhã. Cả hai đều sang số bằng tay, bóp embrayage vào và vặn để đổi số.
Cuối thập niên 1950, miền Nam bắt đầu xuất hiện những xe từ Đức như Goebel, Sachs, Puch. Các xe này đều có chung đặc điểm là có bình xăng đặt trước người lái, sang số bằng tay, có ống nhún cả trước lẫn sau, và máy đều là 50cc để được xếp vào loại vélomoteur, không cần bằng lái.
Mỗi xe lại có những đặc điểm riêng như máy xe Puch luôn luôn được bọc trong lớp vỏ bằng nhôm, có quạt chạy để làm mát. Như thế có lợi điểm là máy xe được làm mát ngay cả khi ngừng đèn đỏ.
Vì là xe có sang số nên tuy chỉ có 50cc, xe gắn máy Đức có sức kéo mạnh hơn các xe Mobylette ở số 1, 2, nên cũng được dùng để kéo xe lôi, có thể kéo được thêm được bốn năm hành khách và hàng hóa phía sau. Hãng Puch và Sachs ngày nay vẫn còn tồn tại.
Đến khoảng 1965 thì xuất hiện Honda. Một số xe Honda đầu tiên xuất hiện ở nước ta là do người Mỹ mua đem sang Việt Nam để đi làm việc. Những chiếc xe này được để lại khi họ về nước, chúng lọt ra ngoài thị trường và được người Việt mua.
Các phi công Mỹ dùng xe Honda để di chuyển giữa chỗ đậu phi cơ và doanh trại. Từ doanh trại ra chỗ đậu thường xa, đi bộ cũng mất vài phút đến vài chục phút. Có xe Honda, phi công thu ngắn được thời gian, nhất là khi có báo động. Phóng xe Honda ra máy bay nhanh hơn là chạy bộ.
Xe Honda S90 có lẽ là chiếc được ưa chuộng nhất trong số các xe Honda trước 1965 vì kiểu đẹp và máy mạnh, tiếng nổ giòn.
Các kiểu xe khác là C110, S65 (thường được gọi là S50), P50, C50. Xe P50 có cấu tạo đặc biệt với máy nằm ở sát bánh sau và truyền động thẳng vào bánh chứ không qua dây xích.
Cách đặt máy này có lợi là khỏi bị mất lực khi truyền qua dây xích và giảm bớt số bộ phận nhưng có khuyết điểm là xe dễ bị mất thăng bằng vì đầu nhẹ, đuôi nặng. Lại thêm khi đi xuống ổ gà vì không có ống nhún nên sức va chạm có thể làm vỡ răng cưa ở vành bánh xe.
Chiếc xe Honda được chính thức nhập cảng để bán cho người tiêu thụ là xe Honda Dame năm 1965. Xe Honda Dame C50 trước 1965 có chiếc đã có bộ đề bằng điện, khỏi cần đạp. Trong khi chiếc Honda Dame nhập cảng hàng loạt sau này phải đạp máy nổ bằng chân.
Những chiếc xe Honda Dame đầu tiên xuất hiện tại Sài Gòn thu hút được sự chú ý của người đi đường. Những ngày đầu tiên xe bán ra ngoài, trên các nẻo đường phố người ta nhìn thấy các chiếc xe Honda Dame màu đỏ hay xanh lá cây nhạt. Có người bị tắt máy xe, hý hoáy nhìn xuống chân vì chưa quen với cách sang số bằng chân. Sang lộn số có thể làm xe tắt máy.
Các hiệu xe Suzuki Dame, Yamaha Dame cũng giống thế. Có Honda Dame nhưng không ai gọi là Honda Dame, mà gọi là Honda đàn ông.
Còn các xe gắn máy Nhật kiểu đàn ông được vẽ giống như những chiếc môtô phân khối lớn ở chỗ không có pê-đan (pédale) mà có cần đạp cho nổ máy, hai bên có thanh ngang để chân, bên phải là phanh chân, bên trái là cần sang số, embrayage tay trái, phanh trước tay phải, bình xăng phía trước.
Các xe này còn giống môtô ở chỗ hai bên bình xăng có hai miếng cao su để đầu gối áp vào cho êm. Điều đáng kể là yên xe thấp vừa với chiều cao người Á châu khiến cho việc leo lên xe, chống xe dễ dàng hơn. Tay ga vặn nhẹ nhàng chứ không nặng như xe của “Tây”. Máy đạp nhẹ nhàng và dễ nổ.
Nói tóm lại, các nhà chế tạo Nhật khiến cho các chiếc xe gắn máy sử dụng dễ dàng, tiện nghi hơn khiến cho người dùng thấy rất thoải mái khi đi xe.
Sau chiếc xe Honda Dame là sự xuất hiện của Honda đàn ông 66 (SS50). SS là chữ viết tắt của Super Sport. Chiếc Honda 66 xuất hiện vào năm 1966, với màu đỏ hay đen, tay lái ngắn để người lái thu hẹp khoảng cách hai tay, giảm tiết diện cản gió.
Xe không có đèn xi-nhan, hộp số có năm số và có thể đạt đến tốc độ tối đa đáng nể là 90km/giờ đối với một chiếc xe máy 50cc. Đó là một chiếc xe được vẽ kiểu với các đặc tính của xe đua. Tuy nhiên chiếc xe này không tiện dụng trong thành phố vì tay lái quá ngắn nên khó điều khiển.
Sang năm 1967, Honda sửa lại kiểu xe cho tay lái rộng hơn, hộp số có năm số, sơn đen hoặc đỏ, có đèn xi-nhan, ống nhún trước có bọc cao su, tốc độ tối đa 80k/giờ. Kiểu xe 67 (SS50E) đã đi vào lịch sử vì máy mạnh, chạy nhanh, được nhiều người ưa chuộng và có lẽ là được sử dụng nhiều nhất tại miền Nam cùng với xe Honda Dame.
Về sau Honda có ra các kiểu khác nhưng Honda 67 vẫn được nhiều người biết đến nhất. Vì máy mạnh nên chiếc Honda 67 được dùng để kéo xe lôi thay cho các hiệu xe Đức trước đây.
Liệu điều này có phải chỉ là kết quả của sự nhàm chán trong đời…
Những "công thức" sau đây đã khiến cho hàng thế hệ độc giả và khán…
Không ai mong muốn bản thân bị burnout vì công việc cả. Thế thì làm…
Khi càng ngày nhiều phụ nữ giữ vị trí dẫn dắt ở các tổ chức,…
Mặc dù khác biệt, nhưng chúng ta hoàn toàn có thể tham khảo, chọn lọc…
"Những địa hạt phù du" đã mang đến góc nhìn mới mẻ và đầy triết…